đất nước vẫn đang bao cấp cho giáo dục?

Chủ đề thuộc danh mục 'Quảng cáo - Dịch vụ' được đăng bởi vuvanhon5793yahoo, 23/8/16.

  1. vuvanhon5793yahoo

    vuvanhon5793yahoo Mới đăng kí

    Tham gia:
    9/8/16
    Số bài viết:
    2
    Số lần "Thích" đã nhận:
    0
    Điểm nhận Cup:
    1
    Giới tính:
    Nữ
    LTS: Tiếp theo bài viết trước, hôm nay GS. Phạm Phụ sẽ dẫn ra những kinh nghiệm của các nước có nền giáo dục tiền tiến, để xem họ san sớt tổn phí cho giáo dục như thế nào.

    Tòa soạn xin được giới thiệu tới bạn đọc.

    Xem thêm: http://tintuyensinh247.edu.vn/lien-thong/lien-thong-hoc-vien-tai-chinh.html

    Từ những đặc trưng nói trên của dịch vụ giáo dục đại học, gần như vớ các nước trên thế giới bây chừ đều đặt ra bài toán “san sẻ phí tổn” (cost sharing) trong giáo dục đại học, nghĩa là phí đơn vị sẽ được chia sẻ như thế nào giữa Ngân sách Nhà nước; Phần người học phải chi trả và và phần đóng góp của cộng đồng.


    Tuy nhiên, do truyền thống, do đặc điểm cũng như do cách chọn lọc chính sách của từng nước, sự san sẻ lại khá khác nhau giữa các nước.

    Xem thêm: http://intuyensinh247.edu.vn/tuyen-...chi-b1-theo-khung-chau-au-100-tai-ha-noi.html

    đầu tiên ta thấy, mức tổng chi cho giáo dục đại học so với GDP cũng như tỷ lệ phần ngân sách Nhà nước trong tổng chi là khá khác nhau giữa các nước (xem Bảng 3). Nhưng nếu tính đến sự khác nhau về tỷ lệ SV trong độ tuổi (từ 13-60%) thì tỷ lệ chi phí đơn vị/GDP-đn là chênh lệch nhau không lớn, trừ trường hợp của Mỹ.

    Mỹ là một trường hợp rất đặc biệt. Một là tổng chi cho giáo dục đại học ở đây rất lớn, chiếm đến 2.9% GDP. Hai là tỷ lệ phần ngân sách Nhà nước trong tổng chi lại ở mức nhàng nhàng, chỉ có 42.8%.

    Có được tỷ lệ này là do ở Mỹ có truyền thống cho tặng đối với giáo dục đại học. hồ hết các đại học lớn ở Mỹ, đặc biệt là các đại học tư thục độc lập không vì lợi nhuận đều có nguồn vốn cho tặng rất lớn, gọi là Endowment.


    [center !important]Bảng 3: chi phí cho giáo dục đại học so với GDP[/center !important]


    Theo số liệu thống kê năm 2005, Endowment ở các ĐH Mỹ như sau: ĐH Harvard 25 tỷ USD, Yale 15 tỷ USD, Stanford 12 tỷ USD…, có khoảng 35 trường ĐH có Endowment tính trên đầu SV lớn hơn 100.000 USD. Cơ sở ĐH chỉ được phép dùng tiền sinh lời từ nguồn vốn này(7).

    Từ đó, cấu trúc “chia sẻ phí” năm 2000 ở ĐH công lập và dân lập của Mỹ như sau:


    [center !important]Hình 5: chia sẻ chi phí trong giáo dục đại học ở Mỹ (2000)[/center !important]


    Trong khi đó, mức tổng chi cho giáo dục đại học ở phần nhiều các nước OECD chỉ khoảng 1,6-1,7% GDP và tỷ lệ phần ngân sách Nhà nước trong tổng chi bình quân lại lên đến 78.2%.

    Tỷ lệ này ở các Nhà nước Châu Âu phúc lợi còn cao hơn nữa, Ví dụ như Pháp đạt đến 83.7%. Ở các nước này, giáo dục đại học gần như miễn phí đối với người học.

    Nhưng xin lưu ý, ở các quốc gia Châu Âu phúc lợi, phần tổng tiêu pha của Chính phủ chiếm đến ngần 50% của GDP (Thụy Điển 56.7%, Pháp 53.7%, Đức 47%, Cuba 59.7%.

    bản chất ăn tiêu của Chính phủ chính là tiền thuế từ doanh nghiệp và dân chúng. Cũng chính cho nên, khi nói về học phí ĐH, câu hỏi luôn đặt ra ở các nước này là: “Tăng thuế hay tăng học phí?”


    [center !important]
    [center !important]Bảng 4: tiêu pha của Chính phủ so với GDP (2004)[/center !important]
    [/center !important]



    Đây là vấn đề có tính truyền thống tốt đẹp của các quốc gia Châu Âu phúc lợi nhưng đồng thời cũng là chướng ngại ở các nước này trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu.

    Với các nước ở Châu Á tình hình lại hoàn toàn khác. Ở đây mức “tiêu pha của Chính phủ” so với GDP rất thấp (Năm 2004; Đài Loan 15.3%, Malaysia 26.5%, Việt Nam 26.7%, Hàn Quốc 28.1%.…) so với mức bình quân của thế giới 31%; rất khác với các “quốc gia Châu Âu phúc lợi”.

    thành thử, người ta cho rằng, ở đây Nhà nước chỉ đủ sức ưu tiên cho giáo dục phổ cập và một số lĩnh vực ưu tiên về khoa học-kỹ thuật. Với giáo dục trung học phổ quát và giáo dục đại học, cốt tử là gia đình và người học phải gánh chịu (“User-pays Principle”).

    Xem thêm: http://clipgame.net/

    Nhiều nhà kinh tế giáo dục của Mỹ cũng cho rằng: “Thiếu cơ sở triết lý và kinh tế để buộc phải cung cấp dịch vụ giáo dục đại học bằng ngân sách Nhà nước [John L. Yeager et all].

    Đấy cũng chính là những ý tưởng chính của “mô hình Nhật Bản” (J-model). Với mô hình này phần ngân sách Nhà nước chi cho giáo dục đại học chỉ chiếm khoảng 10% trong tổng ngân cách quốc gia dành cho giáo dục và khoảng 25-36% của tổng chi cho giáo dục đại học.

    Mô hình này cũng đã lan tỏa sang Hàn Quốc, Đài Loan từ cuối những năm 1970 và sang Malaysia, Indonesia, Singapore từ cuối những năm 1980.

    “san sớt tổn phí” cho giáo dục đại học Việt Nam


    Tiếp theo là việc lấy đâu ra để có phí tổn đơn vị là 1.200 USD (năm 2009) trong điều kiện của Việt Nam? Điều này liên quan đến bài toán “san sẻ phí tổn” (Cost Sharing) trong tài chính cho giáo dục đại học như đã nói ở trên, tức là tỷ lệ san sẻ phí như thế nào giữa:

    Phần ngân sách Nhà nước; Phần người học phải chi trả, và phần đóng góp của cộng đồng, kể cả đóng góp của chính cơ sở ĐH qua hoạt động khoa học và các hoạt động có thu khác.


    [center !important]Hình 7: Nguồn tài chính của giáo dục đại học Việt Nam (2002)[/center !important]


    Theo ước lượng gần đúng, tỷ lệ các phần này ở các ĐH công lập của Việt Nam trong một số năm gần đây là khoảng 55%, 42% và 3%, một cách tương ứng (Hình 7).

    Nếu giữ nguyên tỷ lệ này thì ngân sách quốc gia cũng phải tăng lên trên 2 lần. Đây là một tính toán không thực tại, tỷ lệ ngân sách quốc gia dành cho giáo dục đã đạt đến con số 20% và giáo dục đại học cũng khó lòng dành ưu tiên ngân sách quốc gia so với giáo dục phổ cập cũng như các lĩnh vực an sinh tầng lớp khác như y tế, giảm nghèo… nên, phải chăng cần vận dụng “mô hình Nhật Bản” (J – model)?

    Khi đó, với thành phần thứ (1) – ngân sách quốc gia, nếu Việt Nam có sinh viên ở ĐH dân lập chiếm 30 – 40% vào 2010 như dự định trước năm 2005 (tỷ lệ ngày nay vẫn dưới 15%!) và dồn thêm ngân sách quốc gia cho 60 – 70% sinh viên ở các Đại học công lập, giảm tỷ lệ 55% nói trên xuống khoảng 25 – 35% như ở nhiều nước của Châu Á.

    Kèm theo đó là việc nâng cao hiệu quả trong phân phối ngân sách quốc gia cũng như sử dụng tài chính ở các cơ sở ĐH vv…, thì nguồn vốn ngân sách quốc gia dành cho giáo dục đại học vẫn có thể giữ nguyên như con số giờ.

    Với thành phần thứ ba – đóng góp của cộng đồng, một mặt Việt Nam hiện chưa có truyền thống cho tặng cho giáo dục đại học như ở Mỹ, Nhật vv…, mặt khác hoạt động khoa học và dịch vụ của các cơ sở ĐH cũng chưa có hiệu quả, nên hy vọng tăng quá cao tỷ lệ này cũng thiếu thực tế.

    tuy thế, vẫn nên đặt đích là khoảng 15%.

    Nghị Quyết 14 của Chính phủ năm 2005 về đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục đại học thời đoạn 2006 – 2010 cũng đã có đề nghị “tăng tỷ lệ đóng góp của các cơ sở ĐH về hoạt động khoa học – công nghệ lên tối thiểu là 15% vào năm 2010 và 25% vào năm 2020 trong trong tổng thu” của nhà trường.

    Để có được con số này, có lẽ quốc gia, bên cạnh chính sách miễn thuế cho tặng đối với giáo dục đại học, cần có chính sách xây dựng “vốn cho tặng” (Endowment) ở các cơ sở giáo dục đại học.

    nên, tỷ lệ của thành phần (2) – đóng góp của SV và gia đình sinh viên sẽ vào khoảng 50 – 55%. Điều này có nghĩa, học phí ở ĐH công lập bình quân sẽ phải tăng lên hơn 3 lần so với hiện giờ.

    Năm 2007, UNDP Việt Nam cũng đã có một nghiên cứu về an sinh tầng lớp, kết quả cho thấy: Có đến 35% ngân sách quốc gia trợ cấp cho giáo dục đã chảy vào con em của lớp 20% dân cư giàu nhất, nhưng chỉ có 15% chảy vào con em của lớp 20% dân cư nghèo nhất (!).

    thực tại thế giới cho thấy, cấu trúc “san sẻ phí tổn” thường là khác nhau cho các loại trường khác nhau. thí dụ, trong trường hợp của Thái Lan, hoài đơn vị cho ĐH công truyền thống(14) gấp đến 2 lần uổng đơn vị ở ĐH công nghệ nhưng mức học phí lại chỉ suýt soát bằng nhau.

    Còn ở Mỹ tỷ lệ học phí trên phí đơn vị ở các lớp trường khác nhau cũng rất khác nhau (Bảng 4), biến thiên từ 20,1% cho đến 77,4%.



    Lớp trường

    Cost “E&G&K”

    HP

    Price/Cost (%)



    vớ ĐH

    Công lập

    dân lập

    Lớp 1

    Lớp 3

    Lớp 6

    Lớp 10

    12.000

    9.900

    14.200

    28.500

    12.300

    9.400

    7.900

    3.800

    1.200

    6.500

    5.700

    3.000

    2.900

    6.100

    31,5

    12,4

    45,9

    20,1

    24,4

    30,8

    77,4



    Bảng 4: Tỷ lệ học phí (“Giá bán”) trên CPĐV (“Giá thành”)
    ở các lớp trường ĐH khác nhau của Mỹ (1995)


    Có thể cho rằng, thực chất của sự khác nhau này là tùy thuộc vào đặc trưng các “sản phẩm” của các trường ĐH đó về chừng độ “tác động ngoại biên” cũng như chừng độ công cộng.

    Ví dụ, một ĐH định hướng nghiên cứu mà sản phẩm của nó chủ yếu là tri thức khoa học cơ bản như toán học chẳng hạn (là hàng hóa công cộng như ở Hình 3 bài trước) thì tỷ trọng học phí trong tổn phí đơn vị cần phải rất thấp (15). Thế giới gọi đây là “Chính sách học phí biến đổi”.

    Còn nữa...
     

Ủng hộ diễn đàn